Quảng Trị vào ban đêm lúc này không còn yên bình như lúc trước, pháo sáng và bom đạn lấp lánh trên trời như những chòm sao, chúng không mang tới những điều ước, chúng là cái c.hết.

Mùng nằm sấp trên nền đất lạnh, thân thể tê dại nhưng ý thức vẫn quá rõ ràng. Từng lần đau dồn dập từ vết thương bên ngực trái giống như lưỡi d.ao cứa vào thịt da mỗi khi anh cố thở. Bàn chân kẻ thù đè nặng lên lưng, ép mặt anh sát vào vũng m.áu loãng – thứ chất lỏng ấm áp duy nhất trong cái lạnh đang dần xâm chiếm cơ thể.

M.áu trào ra từ khoé miệng, từ vết thương hở, thậm chí từ cả những vết sẹo cũ – chúng như đồng loạt thức tỉnh, đốt cháy anh trong biển lửa đau đớn. Nhưng đôi tay không thể nhúc nhích. Chỉ còn đôi mắt mở trừng trừng, nhìn đồng đội ngã xuống từng người một trong làn khói đạn.

Từ sâu thẳm trái tim, một tiếng gào thét câm lặng vang lên:

“Đứng dậy! Cầm súng lên! Hét lên!”

Nhưng tất cả những gì thoát ra khỏi cổ họng anh chỉ là tiếng khàn đục lẫn trong tiếng nổ điếc tai. Hơi thở của anh yếu dần, chẳng còn sức nghĩ, anh đành nhắm mắt lại.

Hình như bên kia có tiếng gọi.

“Mùng! Mùng! Dậy đi cậu, dậy sửa giúp u cái mái nhà, hôm qua mưa mới biết bị dột.”

Mùng choàng tỉnh, anh khẽ nheo mắt khi ánh ban mai lọt qua khe cửa gỗ,mồ hôi bám vào da thịt và lớp vải sờn lót qua loa dưới gáy. Anh thở mạnh, nghe tiếng chổi của u quét loạt soạt trên sân, mùi khói bếp ấm áp quyện vào từng hơi thở đã kéo anh về thực tại. Tất cả vẫn nguyên vẹn.

Chỉ có giấc mơ là tan biến.

Hai đứa em của Mùng thấy anh dậy, vội chạy tới xúm xít, chúng nhét vào tay anh những tờ giấy màu đỏ màu vàng và khung tre tự làm.

“Anh Mùng làm cho em cái đèn ông sao nhá! Anh hứa rồi đấy! Đừng cho thằng Tí động vào lại rách hết việc”

“Ứ ừ, chị Hoa không cho em chơi cùng, em mách mẹ!!”

Anh thở dài, cầm tất cả những món chúng nó đưa ra đặt lên giường, chẳng hiểu sao, anh muốn nhìn chúng nó lâu hơn một chút, những ánh mắt tròn xoe đang háo hức chờ anh gật đầu, những sợi tóc tơ mơn mởn trên đầu thơm mùi dầu bưởi làm anh thấy nhẹ nhõm. Mùng đáp lại hai đứa nhỏ:

“Ừ, tụi bay ra kia chơi đi, anh ra phụ u cái đã…”

Anh vò cái đầu rối bù, đứng dậy ra ngoài và thở dài nhẹ nhõm khi thấy u vẫn đang đứng đó, cái lưng còng còng cắm cúi quét sân. Thấy anh bần thần, bà mắng.

“Mà thôi, cậu chạy sang nhà bà tư lấy quả bưởi về đây còn bày mâm cỗ, sáng nay u xin được quả ngon mà chưa lấy về được, nhanh nhanh đi!”

Giọng u vội vã cắt ngang suy nghĩ của Mùng. Anh gật đầu, tay với đại chiếc nón mê cũ kỹ trên vách rồi bước vội ra ngõ. Bầu trời buổi sớm trong veo, vẫn con đường đất mịn lấm tấm bùn nâu dính lên ống quần, vẫn mùi lúa chín quyện trong gió như ôm lấy anh – cái hương vị của những buổi sáng bình yên năm nào. Gió thổi, mang theo hơi ấm của quê nhà, xóa đi cái lạnh từ giấc mơ về những đêm co ro trong hầm hào.

Anh hít một hơi thật sâu, bước đi.

Tới nhà bà Tư, anh đứng ngoài ngõ gọi, có tiếng bà từ trong nhà nói vọng ra.

“Mùng hả? Vào đi con, vào uống nước cái đã!”

Chợt, một bóng hình thướt tha hiện ra sau lưng, cô gái ngả nhẹ vành nón lá, để lộ nụ cười dịu ấm áp mà tinh khôi. Cô nói nhỏ nhẹ, trên má còn lớt phớt màu hồng e ấp.

“Anh cứ vào nhà chơi với mẹ em..”

Thấy cô, Mùng lúng túng đáp “ừ” một tiếng rồi theo cô con gái ấy vào, bà Tư thấy anh liền nhanh chóng rót nước trà ấm mời cậu ngồi, xởi lởi hỏi thăm.

“Cậu sinh viên lâu ngày không về, nay về cái là lớn bổng lên đấy nhỉ? Thế cậu lên đấy học có vất vả không?”

“Dạ…cháu cũng không tới nỗi, vẫn đủ ăn bác ạ, cháu còn dạy thêm ngoài giờ nữa.”

“Thế hử? Lúc cậu về cái là mẹ cậu vui hẳn, ráng về nhiều bữa nữa cho mẹ cậu còn mừng.”

Mùng cười, cười vì cậu không biết phải đáp lại sao cho phải. Bà Tư vội lôi mấy quả bưởi to bằng cả cái đầu trẻ con bỏ vào cái nón rách mà cậu mang theo.

“Nhưng nhà cháu chỉ xin một qu-”

“Ui giời, cầm hết về đi, cậu không thấy vườn bưởi nhà tôi à? Nhiêu đây thấm tháp gì?”

Anh cười cảm ơn rồi xin ra về. Dịu đi theo tiễn anh, bóng hình cô khiến ký ức ùa về cái thuở xa xưa, cậu bé Mùng mải mê chạy trên cánh đồng chiều, sau lưng là bóng áo trắng nhỏ nhắn cứ bám theo không rời. Giờ đây, sau bao năm xa cách, bước chân ấy vẫn theo sau anh.

“Bao giờ anh lên thành phố học lại?”

Cô gái nhỏ nhẹ hỏi, dường như có nỗi buồn xa xăm trong đó.

“Ngày mai tôi lên luôn, thực cũng muốn ở lại với u thêm vài ngày nữa.”

“Anh…nói dối! Mẹ anh nói anh bỏ học, viết đơn tình nguyện….” Dịu ngập ngừng

“Sao anh lại giấu em..?”

Giọng Dịu khẽ run, câu hỏi ấy bỗng khiến cả thế giới chùng xuống. Những quả bưởi trong tay Mùng bỗng nhẹ bẫng, tất cả sức nặng như dồn cả vào giọt lệ đang lăn trên má người con gái ấy, giọt nước mắt chứa đầy những điều không thể nói thành lời.

Mùng không còn dám nhìn thẳng vào đôi mắt đó, cậu hạ giọng xuống như thì thầm.

“Ừ…Dịu vào nhà đi, tiễn tôi tới đây thôi được rồi.”

Giọng anh khàn đặc như nghẹn lại sau từng chữ. Mùng quay đi thật nhanh – bởi nếu đứng thêm một giây nữa, có lẽ anh sẽ không còn đủ động lực. Đằng sau, có tiếng “em sẽ chờ” như ép anh phải ngoái lại đằng sau, nhưng anh lại giả bộ không nghe thấy, cứ thế bước từng bước như tự giẫm lên tâm can của chính mình.

Về tới nhà, anh đặt chỗ bưởi xuống góc nhà, hai đứa em đã chạy ra đồng chơi, chỉ có mỗi mẹ anh lặng lẽ xắt rau trong bếp. Trên đường về nhà, anh có tiện đường sang nhà hàng xóm mượn thêm cái thang rồi về nhà trèo lên mái để hì hục sửa lại cái chỗ mái bị dột, sẵn đang ở gần mấy cái cành trĩu quả, anh hái thêm mấy quả na với chùm nhãn mang xuống để tối bày mâm cỗ.

Trong nhà, chiếc đèn ông sao dở dang nằm lăn lóc trên nền nhà đất, những mảnh giấy màu vương vãi xung quanh. Mùng nhặt lên, lòng bồi hồi nhớ lại những mùa Trung thu xưa – cái thời cậu sinh viên này còn là đứa trẻ con hớn hở tự làm đèn. Bàn tay vừa cầm bút, vừa lãnh mọi việc nặng trong nhà bây giờ lại thoăn thoắt gấp từng cánh sao. Những động tác vẫn thuộc làu như in hằn trong tiềm thức. Anh cẩn thận làm thêm một chiếc đèn sao mới, rồi một chiếc đèn kéo quân.

Trong tia nắng gay gắt ban trưa rực rọi qua cửa, Mùng chợt nhận ra mình đang mỉm cười. Sự vội vàng của lũ nhỏ lại vô tình làm cho anh được trở lại như một cậu bé ngày nào.

Tối. Trăng tròn treo lơ lửng giữa trời như chiếc đĩa bạc khổng lồ, ánh vàng mật chảy tràn xuống cánh đồng, ngọn tre. Sao lưa thưa điểm xuyết quanh trăng, lấp lánh tựa hạt kim cương rải trên nhung đen. Gió thu nhè nhẹ đưa, khiến ánh trăng như sóng sánh trên từng ngọn cỏ, mặt ao. Không gian ngập trong thứ ánh sáng dịu dàng, đủ để nhìn rõ từng chiếc lá khẽ đung đưa trong đêm.

U bày những món quả lên mâm, gài thêm những chiếc đèn lồng nhỏ để tô điểm cho mâm cỗ thêm chút sáng sủa. Cái bánh nướng, bánh dẻo bé xíu nằm im trên hai chiếc đĩa sứt mép. Tiếng trẻ con ríu rít chơi đùa xung quanh, chúng vui thích đùa nghịch cái đèn kéo quân mà anh làm ban trưa, chơi chán, chúng chuyển sang chơi rồng rắn rồi đuổi bắt, chạy đùa với nhau tới khi mệt lử thì lại thi nhau phá cỗ.

Dưới ánh trăng mờ ảo, Mùng ngồi sát bên u, lần đầu tiên sau bao năm xa cách, anh mới thực sự nhìn rõ những vết chân trời in hằn trên gương mặt y. Những nếp nhăn, đường nét đều kể câu chuyện của một đời lam lũ. Mái tóc u bạc trắng như cước, không còn là những sợi lẻ loi ngày nào mà giờ đã thành một màu bạc phơ không thể nhổ hết. Chỉ có giọng nói là vẫn nguyên vẹn – thứ giọng Bắc nhẹ nhàng như hơi thở của đồng đất quê nhà, thấm vào tâm can anh. U hỏi anh đủ thứ, từ chuyện sách vở ở thành phố đến sức khỏe, bạn bè. Anh đáp lại từng câu đều đều như một cái máy.

Rồi khi đã hỏi hết, u chuyển sang kể, chuyện hai đứa em nghịch ngợm, chuyện cô Dịu tốt bụng hay sang giúp việc nhà, chuyện mảnh vườn sau nhà mùa này trĩu quả… Nhưng lạ thay, trong tất thảy những câu chuyện ấy, u chẳng bao giờ nhắc về chính mình.

Ánh trăng rằm lúc này vô tình rọi thẳng vào vầng trán u, làm lộ rõ hơn bao giờ hết những vết đồi mồi, Mùng chợt thấy nghẹn lòng. Anh hỏi, giọng khẽ run:

“U… u có mệt không?”

Bà khựng người lại, đôi mắt đã mờ đục vì tuổi tác giờ chăm chú nhìn vào đứa con trai lớn.

“Cậu này hỏi gì mà lạ vậy?” Giọng bà bật lên một tiếng cười khàn, nhưng đôi mắt thì không giấu nổi cái bóng đen lo âu. “Tôi mà mệt thì lấy tiền đâu chăm sóc mấy cậu?”

Khoảng lặng.

Chỉ còn tiếng dế kêu riu ríu ngoài bờ rào. Bà nhìn Mùng, cái nhìn xuyên suốt bao năm tháng, đối chiếu từng đường nét trên khuôn mặt anh với hình ảnh người chồng năm nào rồi một tiếng thở dài nặng nề buông ra.

“Cậu càng lớn…càng giống thầy.” Giọng bà chợt chùng xuống, trầm đục như tiếng gió luồn qua khe cửa.

“Ngày xưa thầy cậu cũng bước lên chiến tuyến bằng đôi chân này, bằng cái đầu lì lợm này…”

Bàn tay bà siết chặt lấy tay anh.

“Mai kia cậu lên đó…”

Giọng bà bỗng nghẹn lại.

“Tôi chỉ mong cậu đừng có đi theo con đường của thầy cậu! Nghe chưa??”

Câu nói bật ra như một lời van nài, một mệnh lệnh.

Mùng lặng người, cổ họng khô đắng lại nghe như cỏ cháy. Anh muốn nói gì đó, nhưng lời cứ vướng tận đáy lòng, không sao nhúc nhích được. Bàn tay mẹ vẫn siết chặt tay anh – cái siết của một trái tim biết mình không thể níu giữ định mệnh.

“U…”

Giọng anh vỡ ra thành từng mảnh

“Con sẽ trở về. Con nhất định sẽ trở về mà, u đừng nói vậy…”

Nhưng câu nói ấy nghe như lời nói dối, ngay cả với chính anh. Bởi chiến trường không hứa hẹn điều gì, cũng như ngày xưa, thầy anh đã lên đường với lời hứa đó, rồi chỉ trở về trong tấm ảnh đen trắng trên bàn thờ.

Bà mẹ khẽ lắc đầu, nụ cười gượng gạo nở trên môi nhưng đôi mắt thì đẫm nước:

“Thôi, u biết tính cậu rồi. Giống hệt thầy cậu ngày xưa… Cứng đầu, không chịu nghe ai.”

Bà buông tay anh, quay đi phủi vội giọt nước mắt bằng mép áo. Tiếng lũ trẻ ngoài sân vẫn cười đùa ríu rít, vô tư không hay biết những lời cuối đang được thổ lộ dưới ánh trăng này.

“Vào nhà đi, khuya rồi.”

Bà đứng dậy, bóng lưng còng in lên vách lá.

“Mai u sẽ gói cho cậu ít mứt gừng, mang theo cho đỡ nhớ nhà.”

Câu nói cuối cùng ấy mới thật sự khiến trái tim Mùng quặn đau. Bởi đó là lời của một người mẹ đã chấp nhận buông tay, nhưng vẫn cố gắng trao đi chút hơi ấm cuối cùng. Mùng muốn đứng dậy, muốn chạy theo cái bóng lưng còng đang khuất dần sau cánh cửa, muốn ôm lấy u thật chặt, hít đầy lồng ngực mùi nắng, mùi khói bếp, mùi mồ hôi mặn chát trên áo vải thô – những thứ làm nên hơi ấm mà anh sắp phải xa.

Nhưng anh không làm được, có lẽ bởi anh sợ, sợ rằng nếu chạm vào u bây giờ, anh sẽ không còn can đảm để bước đi.

Ánh trăng vẫn rải bạc lên mái tranh. Mùng ngồi đó, thẫn thờ nhìn bàn tay mình – đôi bàn tay vừa hứa sẽ trở về, nhưng biết đâu mai này chỉ còn là nắm tro lạnh. Mùng chợt nhớ lại giấc mơ ngày trước và thoáng rùng mình, nếu như chiến trường tàn khốc như vậy…

Tiếng dế kêu nhắc nhở cậu trở lại thực tại.

“Kệ! Có phải c.hết lần nữa cũng phải mang độc lập về!”

Đêm ấy, ngọn đèn dầu vật vờ chiếu lên những trang sách cũ nằm bất động dưới tay anh. Căn nhà chìm trong tĩnh lặng, chỉ còn tiếng thở đều của hai đứa em nhỏ và tiếng lửa reo tí tách ngoài bếp. Bóng u khẽ lay động trong ánh đèn. Bàn tay gầy guộc với những vết chai sần khẽ buông tấm màn mỏng.

“Cậu ngủ đi, khuya rồi…Mai còn đi sớm.” Giọng u khàn đục.

Anh nằm xuống, mẹ anh ngồi trên đầu giường, im lặng.

Rồi bất chợt.

“À ơi… Ví dầu… cầu ván đóng đinh…”

Giọng hát mẹ vỡ òa trong đêm, như một con dao xuyên thẳng vào tim. Từng lời, từng chữ đều là thứ ghim vào trong tâm tưởng ký ức, anh nhớ ra rồi – bài hát ru năm xưa, cái thuở mẹ còn đủ sức ôm con vào lòng, cái thuở bố vẫn còn sống…

Nước mắt chảy dọc theo sống mũi, mặn chát trên môi. Anh siết chặt hai bàn tay vào nhau, móng tay cắm sâu vào da thịt mà không hay. Tiếng hát mẹ giờ đây sao giống tiếng khóc, sao đầy những xót xa mà anh chưa từng nghe thấy.

“Cầu tre lắt lẻo… gập ghềnh… khó đi…”

Khóe mắt nhòe đi, anh cố nuốt vào một tiếng nấc, cổ họng nghẹn lại như có ai bóp chặt. Đáng ra anh nên nói, nói rằng mẹ ơi, con sợ lắm, sợ những ngày không có mẹ ở phía trước, sợ cả những ngày mẹ không còn đợi con…

Giờ đây, tiếng hát ấy vang lên như một lời từ biệt.

Anh bật dậy như một cơn gió, chân đạp mạnh vào tấm chiếu cũ. Trong tích tắc, anh thấy rõ bóng lưng mẹ khom, mái tóc bạc phơ loáng thoáng ánh đèn dầu.

“U…!” – Tiếng gọi nghẹn ứ trong cổ họng.

Anh ôm chầm lấy mẹ, hai tay siết chặt thân hình gầy guộc, mặt áp vào lưng áo vải thô ráp. Mùi khói bếp, mùi mồ hôi quen thuộc của mẹ ùa vào mũi, xộc thẳng vào tim.

“Cậu…?”

Mùng không trả lời. Anh chỉ siết chặt hơn, như muốn mang cả hình hài mẹ vào lồng ngực mình, để mang theo khi đi xa.

“Con xin lỗi… Con xin lỗi…” Giọng anh vỡ vụn thành từng mảnh, anh bất lực lặp đi lặp lại câu nói từ tận đáy lòng anh thổn thức.

Mẹ quay người lại, đôi bàn tay chai sạn khẽ vuốt mái tóc rối của người con trai. Trong ánh lửa bập bùng, anh thấy rõ hai hàng nước mắt lăn trên gương mặt nhăn nheo của mẹ.

“Cậu bị sao vậy?” – Mẹ khẽ thì thầm, giọng rung rung – “Lính tráng rồi mà còn khóc nhè như trẻ con.”

Trong vòng tay mẹ, Mùng ước thời gian ngừng trôi. Ước khoảnh khắc này kéo dài vĩnh viễn, để hơi ấm mẹ truyền qua lớp áo, để tiếng tim mẹ đập thình thịch bên tai, để mùi khói bếp quen thuộc còn quyện trong từng sợi tóc. Anh nhắm chặt mắt lại, ép cho nước mắt trào ra.

Lại nữa, bên kia tai lại bắt đầu có ai đó gọi anh dồn dập.

“Bên này!! Người này vẫn còn thở!! Mang cáng tới đây!!”

Tiếng gọi vội vã của một người đồng đội quen, giọng nói lạc đi vì hoảng loạn.

“Mùng!! Cố lên!! Mở mắt ra! Cứu viện tới rồi!”

Khoảng lặng hiếm hoi giữa bãi chiến trường tan hoang. Khói s.úng cuộn lên từ những hố bom còn nóng bỏng, mùi thuốc nổ lẫn với mùi đất cháy khét, trong chút ánh sáng nhỏ bé, những bóng người khập khiễng lao ra khỏi chiến hào, bất chấp nguy cơ đạn lạc bất thần.

Họ đang tìm đồng đội.

Mùng mở hé mắt, có ánh nắng chiếu qua vành mũ đồng đội, lại có mùi mồ hôi, và cả mùi máu. M.áu thấm ướt lớp băng gạc tạm bợ, nhưng kỳ lạ thay, trái tim vẫn đập.

Anh đã sống.

Như một phép màu.

Ký ức về đêm trăng, về vòng tay mẹ, về tiếng hát ru giờ chỉ còn là mảnh vỡ của giấc mơ đẹp đẽ nhất. Mùng nhắm mắt lại, nhưng không còn giấc mơ nào đón cậu vào vô thức nữa, chỉ có bóng đêm.

“U ơi… con vẫn còn sống…”

_Ảnh được lấy trong bộ phim “Mùi cỏ cháy”.

_Mọi sự vật, sự việc, con người trong truyện đều là tác phẩm của trí tưởng tượng.

Bài dự thi cuộc thi viết Tết Đoàn Viên, được chia sẻ bởi: Nter Khánh Vy